
97
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 6, tập 12, tháng 11/2022
động lực NCKH lần lượt là: nhóm nhân tố sinh viên
có điểm trung bình là 21,19 ± 3,59; nhóm nhân tố
giảng viên có điểm trung bình là 17,03 ± 4,01; nhóm
nhân tố chính sách của Nhà trường có điểm trung
bình là 15,92 ± 3,08; nhóm nhân tố cơ sở vật chất
của Nhà trường có điểm trung bình là 12,37 ± 2,75;
nhóm nhân tố cơ sở thực tập có điểm trung bình là
12,20 ± 2,70. Các điểm trung bình ở các nhóm nhân
tố ở mức cao cho thấy các khó khăn trở ngại của các
nhân tố tác động đến động lực NCKH càng lớn. Các
yếu tố tạo động lực NCKH của sinh viên nhằm tạo
điều kiện, khuyến khích, động viên sinh viên nhiệt
nh, hăng hái và nỗ lực hơn trong nghiên cứu, để
đẩy mạnh phong trào NCKH trong sinh viên và góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, cần chú
quan tâm đến vấn đề này tạo điều kiện cho sinh viên
được phát huy năng lực nghiên cứu.
Qua bảng 4 cho thấy đa số sinh viên trong nhóm
nghiên cứu đều đồng ý cho rằng các hiểu biết về
NCKH hạn chế và NCKH là một việc khó có điểm
trung bình ở mức cao với êu chí 1 (điểm TB 3,72) và
êu chí 3 (điểm TB 3,7). Phần lớn sinh viên cho rằng
các giảng viên ít quan tâm đến NCKH có điểm TB ở
mức cao với êu chí 7 (điểm TB 2,9). Đa số sinh viên
cũng đồng ý cho rằng Chính sách của Nhà trường
với êu chí 14 (kinh phí giành cho NCKH chưa tương
xứng) có điểm trung bình ở mức cao 3,2. Phần lớn
sinh viên đồng ý cho rằng CSVC ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng NCKH của Nhà trường (êu chí 21)
và Internet chưa phủ sóng tốt trong các khu thư
viện, sân trường, lớp học, cơ sở thực tập (êu chí
20). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự
với tác giả Phạm Quang Văn và cộng sự [1] cho rằng
giảng viên chưa đánh giá cao tầm quan trọng của
việc sinh viên NCKH, còn nhiều giảng viên ít quan
tâm đến NCKH và thiếu nhiệt nh trong việc hướng
dẫn sinh viên NCKH. Với các kết quả trên chúng ta
thấy rằng cần phải có các giải pháp đề xuất can thiệp
đến các nhân tố tác động đến động lực NCKH.
4.3. Các yếu tố liên quan đến năng lực trong
hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên điều
dưỡng
4.3.1. Liên quan giữa các nhóm nhân tố tác
động đến động lực NCKH của sinh viên và năng lực
trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
điều dưỡng
Theo nghiên cứu của chúng tôi bảng 5 cho thấy,
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 giữa
điểm trung bình nhóm nhân tố cơ sở vật chất của
Nhà trường và điểm số năng lực nghiên cứu của sinh
viên (β =0,175, p= 0,031). Trong phân ch hồi quy đa
biến, tất cả 5 nhóm nhân tố bao gồm nhóm nhân tố
sinh viên, giảng viên, chính sách Nhà trường, cơ sở
vật chất Nhà trường, cơ sở thực tập thì chỉ giải thích
được 4,2% sự thay đổi điểm số năng lực nghiên cứu
cả sinh viên trong đó chỉ có biến số nhóm nhân tố
Cơ sở vật chất của Nhà trường là có ý nghĩa thống
kê góp phần dự đoán ảnh hưởng đến điểm số năng
lực nghiên cứu (F = 2,73, p < 0,01). Chúng ta thấy
các trang thiết bị về cơ sở vật chất của Trường hiện
có đã phần nào đáp ứng được nhu cầu thí nghiệm
của sinh viên nhưng chưa tạo được ền đề để sinh
viên ếp cận với những ến bộ khoa học mới, vì thế
trong thời gian sắp tới, Nhà trường nên quan tâm
nâng cấp các thiết bị trong phòng thí nghiệm sao
cho hiện đại, đáp ứng được việc NCKH trong thời
kỳ hội nhập. Bên cạnh đó, cũng nên quan tâm đầu
tư đúng mức các đầu sách trong thư viện, vì khi sinh
viên không thể thực hành trong phòng thí nghiệm
thì sinh viên vẫn có thể m hiểu thêm kiến thức mà
mình nghiên cứu trên các sách chuyên khảo, sách
chuyên ngành. Việc đầu tư, phát triển và phủ sóng
internet trong các khu thư viện, ký túc xá, lớp học
cũng mang ý nghĩa to lớn trong việc giúp sinh viên
nghiên cứu, m kiếm nguồn kiếm thức phục vụ cho
nhu cầu NCKH của mình.
4.3.2. Liên quan giữa các đặc điểm chung và
năng lực trong hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên điều dưỡng
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với (p<0,01) giữa
nhóm năng lực NCKH với nhóm tuổi, điểm kết thúc
học phần môn NCKH và xếp loại học lực kỳ trước.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa với (p>0,05) thống
kê giữa nhóm năng lực NCKH và giới nh. Trong
phân ch hồi quy đa biến, những sinh viên đạt điểm
A+/A trong thi kết thúc học phần NCKH là yếu tố dự
đoán ảnh hưởng đến điểm số năng lực nghiên cứu
(OR = 48,24,KTC 95%: 15,38 - 151,30) và yếu tố này
có nghĩa thống kê với (p < 0,001). Nghiên cứu của
chúng tôi cũng tương tự với nghiên cứu của tác giả
Grande, Rizal Angelo N và cộng sự (2022) [5], có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa điểm A+/A trong
khóa học NCKH với năng lực nghiên cứu của sinh
viên (OR=3,20, P=0,04).
5. KẾT LUẬN
Nhóm sinh viên ở nhóm quen thuộc NCKH (Biết
nhiều/tất cả/mọi thứ các êu chí về NCKH) chiếm
tỷ lệ thấp nhất với 8,5%. Đa số sinh viên tham gia
nghiên cứu ở nhóm không quen thuộc NCKH (Biết
một số/một chút/không biết các êu chí về NCKH)
chiếm tỷ lệ 91,5%.
Điểm số trung bình của các nhóm nhân tố tác
động đến động lực NCKH lần lượt là: nhóm nhân tố
sinh viên có điểm trung bình là 21,19 ± 3,59; nhóm